Nguồn gốc của Âm Lịch và Tử vi
Hầu như dân ở các nước Việt, Hàn, Nhật, và Trung quốc nơi khai sinh ra khoa lịch số, đều biết nhiều hay nghe nói về âm lịch, dù có đang dùng Dương lịch như một tiêu chuẩn chung cho cả thế giới hiệnnay. Thích hay không thì ít nhất đa số cũng đều chấp nhận chuyện ăn mừng tết Nguyên đán theo truyền thống dựa vào Âmlịch. Bởi vậy nên phần đông các cuốn lịch in ra trong các nước nói trên đều có phần ghi chú thêm ngày “Ta” đi kèm. Riêng đối với người Việt thì hình như nhà nào cũng thích có cuốn lịch thuộc loại tam tông miếu để treo tường, ngay cả trong những gia đình sống ở hải ngọai. Mục đích chính không phải vì thích coi theo ngàyt a, mà nguyên nhân cólẽ là do từ tôn giáo và tín ngưỡng, biết ngày nào rằm hay mùng một để ăn chay (theo Phật gíao). Chỉ có một thiểu số ít hơn là dùng âm lịch thường xuyên để nghiên cứu hay áp dụng vào các bộ môn khoa học huyền bí, như lấy số tử vi hay coi ngày lành tháng tốt cho chuyện làm đám cưới hỏi, khai trương công việc làm ăn v.v.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dươnglịch. Dùv ậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trước đây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, hay năm tới 2003 là Quý-Mùi, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truytìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinhgia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trình bày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sángtỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quans át với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinhgia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và Lục Tuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âml ịch. Phần cuối của bài viết sẽ giảit hích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Hiện nay nghề làm lịch số của Trung quốc không còn giữ được bí mật theo kiểu cha truyền con nối như xưa, vì nhờ vào phương tiện in ấn dồi dào từ sách vở ghi chép còn sót lại để nghiên cứu. Hơn nữa, Âm lịch cũng không còn thực dụng, vì hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đang chính thức dùng Dươnglịch. Dùv ậy, hậu quả của việc bảo vệ bí mật trong mấy ngàn năm trước đây, cũng đã vô tình đánh mất đi cơ hội dành cho những thế hệ về sau này của Trung quốc, nghiên cứu và tìm ra vận hành của Thái dương hệ, trước Âu châu ít nhất là vài trăm năm!
Nếu tình cờ mỗi năm một lần, chúng ta thấy xuất hiện một từ quen thuộc gọi theo tên âm lịch của năm đó, như năm nay 2002 là Nhâm-Ngọ, hay năm tới 2003 là Quý-Mùi, thì dám chắc ai cũng đã ít nhất một lần thắc mắc, bằng cách nào và dựa vào đâu, các nhà lịch số Trung hoa phát minh ra những từ ngữ trên? Nói rõ hơn là mười (10) Thiên Can và mười hai (12) Ðịa Chi. Xin nhắc lại ở đây, 10 Can gồm: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Bài viết này sẽ dựa trên một vài dữ kiện kiểm chứng được của khoa học, để truytìm lại phương pháp làm lịch mà các Chiêm tinhgia Trung hoa thời xưa có thể đã xử dụng. Bằng với tinh thần tôn trọng sự thật và học hỏi, người viết xin minh xác là những gì được trình bày sau đây có thể chưa được chính xác đúng hoàn tòan như đã xảy ra. Nhưng hy vọng sẽ là những ý tưởng khởi đầu, hay nếu có thể được, coi như là một đề nghị nghiên cứu thêm cho những vị có nhiều năng khiếu tự nhiên giỏi về các bộ môn Tử vi Lý số, để cùng làm sángtỏ những gì đã bị hiểu nhầm là khoa học huyền bí.
Nội dung chính của bài viết này sẽ trình bày và giải thích tại sao, chỉ bằng mắt thường quans át với phương tiện ghi chép còn thô sơ, các chiêm tinhgia Trung hoa đã tính được ra Thiên can, Ðịa chi và Lục Tuần Hoa Gíap, hay khái niệm về vận hành 60 năm trong âml ịch. Phần cuối của bài viết sẽ giảit hích một vài điều thắc mắc về những bí ẩn của khoa Tử vi Ðẩu số.
Nguồn gốc Lịch số
Âm lịch (lunar calendar) hay việc soạn thảo lịch số dựa vào vận hành của mặt trăng không phải bắt đầu từ Trung hoa như nhiều người lầm tưởng. Theo dữ kiện có được từ các nhà khảo cổ với bằng chứng rõ rệt, thì nền văn minh Sumerian, phát triển bên cạnh consông Tigris cách đây hơn 6000 năm (khoảng từ năm 5000-4000 BC, để sau này thành trung tâm của xứ ngàn lẻ một đêm, hay ngày nay còn gọi là Baghdad, thủ đô của Iraq) đã biết làm lịch dựa vào vận hành của mặt trăng. Ðế quốc La mã ngay trong thời trước Julius Cesar ( 40 BC ) cũng dùng loại Âm lịch này. Chọn mặt trăng để làm lịch có thể bởi hai lý do: Dễ nhìn vì ánh trăng ban đêm không nóng gay gắt và khó nhìn như mặt trời ban ngày. Thay đổi hình dạng thường xuyên từ khuyết tới tròn dễ thấy hơn là mặt trời hầu như ít khi thay đổi.
Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Aicập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xích đạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 – 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thayvì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấntượng nhiều về mặttrời, và cũnglà lýdo dểhiểu tạisao họ đã dùng mặttrăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiênvăn hay chuyên gia coi sao trêntrời, không phải bị biến nghĩa ra thành “thầy bói toán” như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trong việc tiên đóan thời tiết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của ChuDịch (1150 – 500 BC) cũng chưa nghe nói đến.
Phải đến thời “TamQuốc” của Khổng Minh (Giacát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chính sử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trongviệc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhậnxét bình thường thì cho rằng đó là việc làm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai!
Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gì cả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra mô itrường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phát minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật saun ày của Trung quốc.
Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn tính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thời kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộnc hung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chínhl à bộ môn xem thiênvăn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Tuy nhiên, còn một lý do khá quan trọng khác ít người nghĩ đến, là do yếu tố thiên nhiên. Xứ Aicập (Egypt) nằm ngay trên đường Phân cực Hoàng đạo (Tropic of Cancer, khoảng 23°27 từ xích đạo) nên đa số nhiều người đã thấy được hiện tượng mặt trời chiếu thẳng trên đỉnh đầu. Nghĩa là trong khoảng từ 20 tháng 3 đến 20 tháng 9, nếu cắm một cái cọc thật thẳng đứng, sẽ thấy bóng của cây cọc nhập trùng ngay dưới gốc của nó vào lúc 12 giờ trưa, ít nhất là trong vài ngày (Chỉ những nước nằm giữa đường xích đạo và Bắc bán cầu trong khoảng Vĩ tuyến từ 0 – 23°27 mới thấy được hiện tượng trên. Ngược lại, trong vùng Nam Bán cầu thì khoảng từ 20 tháng 9 đến 20 tháng 3). Nhờ quan sát hiện tượng đó, dân Ai cập cách đây khoảng hơn 4000 năm đã tính ra gần đúng số ngày trong năm (365 thayvì 355 như Âm lịch), và cũng chính là lý do họ chọn làm lịch theo mặt trời, lưu truyền Dương lịch cho đến bây giờ!
Các thủ đô của Trung hoa như Trường An hay Bắc kinh, vì nằm trong vùng ôn đới cách xa trên đường Phân cực (Tropic of Cancer) nên không thấy được hiện tượng nói trên, cũng như khôngcó ấntượng nhiều về mặttrời, và cũnglà lýdo dểhiểu tạisao họ đã dùng mặttrăng để làm lịch.
Theo đúng như trong sử Trung hoa ghi lại thì khoa Lịch số đã có từ thời Hoàng Ðế, cách đây hơn 4000 năm, do các chiêm tinh gia soạn ra (nghĩa nguyên thuỷ là nhà thiênvăn hay chuyên gia coi sao trêntrời, không phải bị biến nghĩa ra thành “thầy bói toán” như về sau này!) chiêm tinh gia biên soạn lịch số để định chuẩn thời gian cho việc hành chánh và cai trị của triều đình Vua quan, nhưng đồng thời cũng giúp rất nhiều cho nghề nông trong việc tiên đóan thời tiết hay thu hoạch mùa màng. Chắc chắn trong giai đoạn đầu khi mới có cho đến khoảng sau thời Hán Cao tổ, âm lịch cũng không tránh khỏi nhiều sai lầm, nhất là rất đơn sơ và chưa có Thiên can hay Ðịa chi như sau này. Bằng chứng là trong thời kỳ phát triển của ChuDịch (1150 – 500 BC) cũng chưa nghe nói đến.
Phải đến thời “TamQuốc” của Khổng Minh (Giacát Lượng) vào khoảng 200-300 AD thì mới có văn tự rõ rệt nói về các Thiên Can, đồng thời xuất hiện các khoa lý số như Kỳ Môn Ðộn Giáp, Thái ất Thần toán, hay Lục Nhâm Ðại Ðộn v.v. Hầu hết các sử gia Trung quốc đều công nhận là chỉ vào thời kỳ của Nhà Hán, sau mấy trăm năm chiến tranh liên miên từ thời Ðông chu Liệt quốc, nền văn minh Trung hoa mới thật sự khởi sắc và đi lên trong Thiên niên kỷ đầu tiên (0 -1000 AD).
Theo chính sử ghi lại, những nghiên cứu và phát minh của Trung hoa thật sự đã bắt đầu từ thời Tần thủy Hoàng, khi vị Hoàng đế tài giỏi nhưng tàn bạo này, có thể động viên hay chiêu dụ được nhiều đạo sĩ (coi như là khoa học gia theo tiêu chuẩn thời đó), trongviệc thám hiểm, đi tìm kiếm các kỳ hoa dược thảo để luyện thuốc trường sinh bất tử cho ông. Dưới nhậnxét bình thường thì cho rằng đó là việc làm xa xỉ, hoang tưởng và mê muội. Nhưng trong lãnh vực nghiên cứu khoa học ngày nay, Tần Thủy Hoàng rất xứng đáng được coi như đã có công sáng lập một cơ cấu kiểu Hàn lâm Viện khoa học đầu tiên cho nhân lọai!
Những chi phí trong việc chiêu đãi hay thưởng công cho các đạo sĩ thời đó, dưới cái nhìn thiếu hiểu biết cho là phung phí, nhưng so với tỷ lệ ngân sách dành riêng cho khảo cứu khoa học ngày nay thì chẳng có nghĩa lý gì cả, dù là của một nước đang phát triển! Chính nhờ làm việc và sống chung tập thể với nhau đó, đã vô tình tạo ra mô itrường tốt đẹp cho những sáng kiến mới, thi đua học hỏi, trao đổi kiến thức giữa các đạo sĩ với nhà vua, và có thể đã là cơ sở đóng góp cho nhiều phát minh quan trọng về khoa học và kỹ thuật saun ày của Trung quốc.
Hoá chất Lưu huỳnh dùng để làm thuốc súng, than đá, thủy ngân, chì, nam châm có từ tính, cách luyện thép, bàn tính (abacus), v.v. có thể đã được bắt đầu nghiên cứu hay tìm ra trong thời kỳ này. Thí dụ về những huyền thoại phù phép mà Khổng Minh xử dụng, là do những phản ứng đặc biệt từ các hoá chất độc hại như lưu huỳnh, thuỷ ngân hay các loài dược thảo trộnc hung với nhau khi bị đốt cháy. Kết qủa là làm cho đối phương bị gây mê, mất trí hay mạng vong trong những vùng gọi là bát qúai trận đồ. Nhưng một trong những thành quả tốt đẹp hơn hết chínhl à bộ môn xem thiênvăn khí tượng bắt đầu xuất hiện được nhiều người biết đến. Nhờ vậy mà khoa lịch số đã được hiệu chỉnh, thay đổi đúng hơn cho tới bây giờ!
Thế nào là lịch vạn niên, lịch vạn sự, lịch âm dương?
Lịch vạn niên xuất hiện khoảng tầm 3000 năm Tr.CN. Cứ mỗi triều đại phong kiến Trung Quốc sẽ bạn bố một bộ lịch riêng giúp dân chúng có thể tính được thời gian (năm, tháng).
Lịch vạn sự dựa vào những tính toán, quy luật chuyển đổi của thời gian để chọn giờ tốt - giờ xấu, ngày tốt xấu, tháng tốt.
Lịch dương lịch chính là loại lịch tính thời gian dựa theo chu kỳ quay xung quanh Mặt Trời của Trái Đất.
Lịch âm lịch chính là loại lịch tính toán thời gian dựa theo chu kỳ hoạt động của Mặt Trăng. Mặt Trăng phiên âm của tiếng Hán nghĩa là Thái Âm, cũng vì vậy lịch âm lịch cũng được một số nơi gọi là lịch Thái Âm.
Lịch vạn sự dựa vào những tính toán, quy luật chuyển đổi của thời gian để chọn giờ tốt - giờ xấu, ngày tốt xấu, tháng tốt.
Lịch dương lịch chính là loại lịch tính thời gian dựa theo chu kỳ quay xung quanh Mặt Trời của Trái Đất.
Lịch âm lịch chính là loại lịch tính toán thời gian dựa theo chu kỳ hoạt động của Mặt Trăng. Mặt Trăng phiên âm của tiếng Hán nghĩa là Thái Âm, cũng vì vậy lịch âm lịch cũng được một số nơi gọi là lịch Thái Âm.
Quy tắc tính lịch Âm Dương
Lịch vạn sự năm 2018 nhìn chung được tính toán theo chu kỳ quay của Mặt Trăng (còn được gọi là Nguyệt Lịch) có 2 quy tắc:
- Lục Thập Hoa Giáp bắt đầu từ năm Giáp Tý rồi luân chuyển dựa vào can chi cho đến năm cuối cùng đó là năm Quý Hợi. Lịch vạn niên lặp lại chi tiết đến giờ ngày tháng theo từng năm.
- Chu kỳ Trăng là 12 tháng của can chi, hàng Chi được cố định và luân chuyển hàng Can. Trong đó lịch tháng được chia ra thành tháng Giêng chính là tháng Dần, tháng hai chính là tháng Mão, tháng 3 chính là tháng Thìn, tháng năm chính là tháng Ngọ, tháng 6 chính là tháng Mùi, tháng bảy, tháng 8, tháng chín, tháng 10, tháng mười một, tháng 12 được gọi là tháng Thân, tháng Dậu, tháng Tuất, tháng Hợi, tháng Tý và tháng Sửu.
Ứng dụng lịch âm dương, cụ thể là lịch vạn sự giúp người làm nông có thể dựa theo tiết khí của lịch để phát triển gieo trồng đúng thời điểm giúp cho sản lượng lớn. Về mặt xã hội thì ứng dụng cho các việc cưới xin, làm nhà,...
Không giống với lịch âm dương, lịch vạn niên hôm nay được vận hành theo chu kỳ 12 ngày, bắt đầu tại ngày Tý và kết thúc ở ngày Hợi. Và trong đó có ngày hoàng đạo, ngày hắc đạo. Lịch vạn sự sẽ đưa ra những kết quả về các ngày chiếu sao tốt vào việc gì, sao xấu chủ về việc gì.
- Lục Thập Hoa Giáp bắt đầu từ năm Giáp Tý rồi luân chuyển dựa vào can chi cho đến năm cuối cùng đó là năm Quý Hợi. Lịch vạn niên lặp lại chi tiết đến giờ ngày tháng theo từng năm.
- Chu kỳ Trăng là 12 tháng của can chi, hàng Chi được cố định và luân chuyển hàng Can. Trong đó lịch tháng được chia ra thành tháng Giêng chính là tháng Dần, tháng hai chính là tháng Mão, tháng 3 chính là tháng Thìn, tháng năm chính là tháng Ngọ, tháng 6 chính là tháng Mùi, tháng bảy, tháng 8, tháng chín, tháng 10, tháng mười một, tháng 12 được gọi là tháng Thân, tháng Dậu, tháng Tuất, tháng Hợi, tháng Tý và tháng Sửu.
Ứng dụng lịch âm dương, cụ thể là lịch vạn sự giúp người làm nông có thể dựa theo tiết khí của lịch để phát triển gieo trồng đúng thời điểm giúp cho sản lượng lớn. Về mặt xã hội thì ứng dụng cho các việc cưới xin, làm nhà,...
Không giống với lịch âm dương, lịch vạn niên hôm nay được vận hành theo chu kỳ 12 ngày, bắt đầu tại ngày Tý và kết thúc ở ngày Hợi. Và trong đó có ngày hoàng đạo, ngày hắc đạo. Lịch vạn sự sẽ đưa ra những kết quả về các ngày chiếu sao tốt vào việc gì, sao xấu chủ về việc gì.